Con đường tiến đến độc lập dân tộc

Ngày 1-9-1858, liên quân Pháp-Tây Ban Nha nổ súng tiến công Đà Nẵng, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta, đến năm 1894 chúng thống trị trên toàn cõi Việt Nam, từ đây người dân Việt Nam bị mất độc lập, mất tự do và trở thành thân phận nô lệ của thực dân Pháp.

Với truyền thống yêu nước nồng nàn và ý chí kiên cường, bất khuất, trong suốt nửa cuối thế kỷ 19 (1858-1896), đông đảo nhân dân trên khắp mọi miền đất nước đã anh dũng chiến đấu, tích cực cùng quan quân triều đình hoặc tự mình đứng lên chống thực dân Pháp.

Để đi tới ngày độc lập, Việt Nam đã trải qua bảy thập kỷ đấu tranh giữ nước, kể từ khi Pháp xâm lược, tàu chiến nổ súng đánh chiếm Đà Nẵng. Khởi nghĩa, nổi dậy với nhiều khuynh hướng đều mang tinh thần chung yêu nước song không đi đến thắng lợi cuối cùng. “Tất cả những cuộc khởi nghĩa yêu nước bị dìm trong máu…”, Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này tổng kết, ví mấy mươi năm ấy “đen tối như không có đường ra”.

Tàu chiến Pháp nổ súng đánh chiếm Đà Nẵng ngày 1/9/1858, mở đầu cuộc xâm lược Việt Nam.
Tàu chiến Pháp nổ súng đánh chiếm Đà Nẵng ngày 1/9/1858, mở đầu cuộc xâm lược Việt Nam.

Những cuộc tập dượt vũ trang – chính trị đầu tiên của nhân dân ta

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời từ hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản tại Hương Cảng, từ ngày 6/1 đến 7/2/1930. Trong những văn kiện đầu tiên, Đảng khẳng định cách mạng bạo lực là con đường duy nhất, cần tổ chức ra quân đội công nông để giành và giữ chính quyền. Các tổ chức vũ trang từ đây lần lượt hình thành.

Ngày 1/5/1930, kỷ niệm ngày Quốc tế lao động, Xứ ủy Trung Kỳ tổ chức cuộc biểu tình của công nông Nghệ Tĩnh, giương cao cờ đỏ búa liềm, hát Quốc tế ca, hô vang khẩu hiệu giảm thuế, giảm giờ làm, tăng lương… Biểu tình kết thúc trong tiếng súng đàn áp, báo hiệu “cuộc đấu tranh ở An Nam đã đến ngày quyết liệt”.

Như hiệu ứng domino, trong tháng 5, công nhân các nhà máy ở Vinh, Bến Thủy lần lượt đình công đòi tăng lương, giảm giờ làm. Nông dân biểu tình hoãn thuế. Nghệ Tĩnh suốt tháng 9-10/1930 rung chuyển bởi những cuộc biểu tình, mít tinh của quần chúng do Xứ ủy Trung Kỳ lãnh đạo. Khi bộ máy Pháp và phong kiến địa phương tê liệt, các Xô Viết – tức ủy ban hành chính do dân bầu hình thành ở nhiều làng xã, trực tiếp quản lý đời sống mọi mặt.

Việc giành chính quyền không có chuẩn bị khiến Xô Viết Nghệ Tĩnh tồn tại vài tháng rồi bị dập tắt. Song cao trào 1930 – 1931 được ví như cuộc “diễn tập vũ trang” đầu tiên từ khi Đảng Cộng sản ra đời, để lại nhiều bài học về liên minh công nông, tập hợp quần chúng đấu tranh vũ trang, giành và giữ chính quyền.

Diễn biến cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh những năm 1930-1931
Diễn biến cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh những năm 1930-1931

Nếu Xô Viết Nghệ Tĩnh được coi là “cuộc diễn tập vũ trang” đầu tiên, phong trào đòi quyền tự do dân chủ cơm áo hòa bình những năm 1936-1939 được ví như “cuộc tập dượt chính trị thứ hai” chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa 1945.

Nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng là giải phóng dân tộc

Sau năm 1939, cuộc đấu tranh dân chủ không còn phù hợp, sách báo công khai của Đảng bị cấm, cán bộ bị bắt. Mật thám đứng theo dõi trước nhà những cán bộ đã lộ mặt trong thời kỳ hoạt động nửa công khai. Các tổ chức đều rút vào bí mật. Các ông Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng… theo lệnh tổ chức “tìm đường vượt biên sang Trung Hoa”.

Hơn 60 ngày sau Thế chiến II bùng nổ, Hội nghị Trung ương 6 tháng 11/1939 của Đảng đã xác định giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu trong bối cảnh mới. Sự chuyển hướng chiến lược định hình dần qua các Hội nghị Trung ương 6-7 và hoàn thiện tại Hội nghị 8 tháng 5/1941, sau khi quân Nhật nhảy vào Đông Dương. Bởi dân tộc không được giải phóng, không độc lập thì quyền lợi giai cấp đến vạn năm không thể đòi lại.

Khi chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ cuối năm 1942, sự chuyển hóa thế và lực giữa phe Đồng minh và trục phát xít dẫn đến khả năng quân đội Đồng minh đổ bộ vào Đông Dương đánh Nhật. Đảng xác định “Đừng ảo tưởng quân Tàu (quân Tưởng Giới Thạch), quân Anh và Mỹ sẽ mang lại tự do cho ta. Cố nhiên là phải kiếm bạn đồng minh, dẫu rằng tạm thời, bấp bênh, có điều kiện, nhưng công việc của ta trước hết ta phải làm lấy”.

Khẩu hiệu Việt Minh kêu gọi đồng bào gia nhập Mặt trận đoàn kết đánh Pháp đuổi Nhật.
Khẩu hiệu Việt Minh kêu gọi đồng bào gia nhập Mặt trận đoàn kết đánh Pháp đuổi Nhật.

Hội nghị Trung ương 8 đã quyết định thành lập Việt Nam độc lập đồng minh, tức Mặt trận Việt Minh ngày 19/5/1941. Mặt trận lấy lá cờ đỏ sao vàng năm cánh làm biểu tượng, liên hiệp nhân dân “cùng nhau đánh Pháp đuổi Nhật, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập”.

Thực tế Nguyễn Ái Quốc từ năm 1940 bôn ba Quế Lâm, Trung Quốc đã nghĩ đến lập mặt trận đoàn kết toàn dân. “Việt Nam giải phóng đồng minh? Việt Nam phản đế đồng minh hay là Việt Nam độc lập đồng minh?”, tên nào cho nhân dân dễ nhớ. Những ý kiến Bác nói ngày đó cuối cùng đã được thảo luận và hiện thực hóa khi Mặt trận Việt Minh ra đời.

Xuân Tú (Long Châu), nơi các chiến sĩ Cứu Quốc quân đã đến nghỉ ngơi, chỉnh đốn đội ngũ sau khi tạm rút khỏi Bắc Sơn năm 1941 (nguồn Internet)
Xuân Tú (Long Châu), nơi các chiến sĩ Cứu Quốc quân đã đến nghỉ ngơi, chỉnh đốn đội ngũ sau khi tạm rút khỏi Bắc Sơn năm 1941 (nguồn Internet)

Giữa năm 1942, khu căn cứ địa Cao Bằng nối Bắc Sơn – Võ Nhai, thông suốt liên lạc giữa Trung ương ở căn cứ với Ban Thường vụ Trung ương dưới xuôi. Cao Bằng – Thái Nguyên – Lạng Sơn – Tuyên Quang tạo thành tuyến hành lang chính trị. Tháng 5/1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh cùng các cộng sự cốt cán từ Pác Bó (Cao Bằng) về Tân Trào (Tuyên Quang) cùng Trung ương Đảng lãnh đạo tổng khởi nghĩa.

Việt Nam tryên truyền giải phóng quân – đội quân chủ lực đầu tiên ra đời

Mùa hè 1944, kế hoạch phát động chiến tranh du kích vùng Cao – Bắc – Lạng đã được khởi thảo và sẵn sàng. Chủ trương sau đó hoãn lại, khi lãnh tụ Hồ Chí Minh từ Trung Quốc trở về vùng biên giáp Cao Bằng tháng 9/1944 và đánh giá lại tình hình. Trung ương nhận định chủ trương mới nhìn trên diện hẹp ba tỉnh Cao – Bắc – Lạng trong khi nhiều địa phương khác chưa sẵn sàng.

Dưới tán rừng Trần Hưng Đạo ngày 22/12/1944, ông Võ Nguyên Giáp nhận nhiệm vụ thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân – đội quân chủ lực đầu tiên làm nòng cốt cho toàn dân khởi nghĩa. Ba ngày sau thành lập, Đội quân 34 thành viên đã diệt đồn Phay Khắt và Nà Ngần ở Cao Bằng, gây thanh thế, mở đầu truyền thống “đánh thắng trận đầu” của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Ông Võ Nguyên Giáp (mặc vest) và 34 đội viên đầu tiên của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân - tiền thân Quân đội nhân dân Việt Nam, tháng 12/1944.
Ông Võ Nguyên Giáp (mặc vest) và 34 đội viên đầu tiên của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân – tiền thân Quân đội nhân dân Việt Nam, tháng 12/1944.

Kháng Nhật cứu nước – bước đệm tiến tới độc lập dân tộc

Thế chiến II bước vào đoạn kết khi ngày 30/4/1945, Hồng quân Liên Xô cắm cờ trên nóc nhà Quốc hội Đức. Hitler tự sát. Ngày 8/5/1945, Đức ký văn bản đầu hàng Liên Xô và quân Đồng minh không điều kiện. Thế chiến II kết thúc ở châu Âu. Ở Đông Dương, quân Nhật trước giờ cáo chung đã “hất cẳng” Pháp bằng cuộc đảo chính đêm 9/3/1945. Tiếng súng Nhật đảo chính Pháp nổ ra cùng lúc Hội nghị Ban thường vụ Trung ương họp mở rộng diễn ra tại Bắc Ninh, cách Hà Nội gần 30 km. “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” – bản Chỉ thị được Trung ương Đảng soạn thảo, ban bố rộng rãi chỉ ba ngày sau đảo chính. Khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật” thay thế “đánh đuổi Nhật, Pháp” trong cao trào kháng Nhật cứu nước đã tạo đà cho tổng khởi nghĩa.

Sách in Chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” của Ban Th­ường vụ Trung ­ương Đảng Cộng sản Đông D­ương, ra ngày 12/3/1945. Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia
Sách in Chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” của Ban Th­ường vụ Trung ­ương Đảng Cộng sản Đông D­ương, ra ngày 12/3/1945. Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Hội nghị quân sự Bắc Kỳ tháng 4/1945, sau khi đánh giá cục diện chiến trường châu Âu, xác định đã đến lúc phát động chiến tranh du kích tiến tới tổng khởi nghĩa. Đại hội đại biểu toàn quốc gồm các giới, đảng phái, thân sĩ sẽ được triệu tập để thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam và lập ra Chính phủ lâm thời. Làn sóng khởi nghĩa từng phần trong cao trào kháng Nhật lan rộng từ đồng bằng Bắc Bộ đến miền Trung. “Với lòng căm phẫn tột độ, nhân dân đã đứng dậy cả rồi. Cách mạng không thể nào đi từng bước một. Tình hình cấp bách đòi một sự thay đổi tận gốc rễ”, ông Võ Nguyên Giáp nhận định.

Khu giải phóng trên phạm vi sáu tỉnh Cao – Bắc – Lạng – Hà – Tuyên – Thái với “thủ đô” Tân Trào được thành lập tháng 6/1945. Việc thực hiện 10 chính sách của Việt Minh, trong đó “phổ thông tuyển cử và các quyền tự do dân chủ” cho hơn một triệu đồng bào đã mang dáng dấp “nước Việt Nam mới ra đời…, thực tế một phần Bắc Bộ đã đặt dưới chính quyền cách mạng”.

Chính quyền ắt về tay – ‘Giờ tổng khởi nghĩa đã đánh!’

Khi cao trào kháng Nhật cuồn cuộn từ Bắc tới Nam, ở Tân Trào từ tháng 7, lãnh tụ Hồ Chí Minh giục chuẩn bị hai hội nghị Đảng toàn quốc và Quốc dân đại hội, chủ trương vẫn họp nếu thiếu vài người chưa về kịp, “không thì không kịp được với tình hình chung”.

Giữa lúc bộn bề, Bác bị sốt mấy ngày nhưng vẫn gượng làm việc đến mức mê sảng. Một đêm chợt tỉnh sau cơn sốt, Bác nói với ông Võ Nguyên Giáp “Thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.

Đại biểu chưa kịp tề tựu đủ, Trung ương và Tổng bộ Việt Minh quyết định không thể chờ thêm nữa. Bởi thời cơ giành chính quyền chỉ đến trong khoảng 15 ngày – từ khi Liên Xô chính thức tham chiến chống Nhật đến trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương.13/8/1945, Trung ương nhận tin quân đội Nhật đã ngừng chiến đấu, Nhật đầu hàng Đồng minh. Vận mệnh dân tộc đứng trước thời cơ lớn. Mệnh  lệnh khởi nghĩa cho toàn dân và bộ đội được ban hành ngay 23h cùng ngày.

Hội nghị toàn quốc của Đảng lập tức triệu tập sáng 14/8 quyết định phát động tổng khởi nghĩa giành lấy chính quyền trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương. Quốc dân Đại hội họp ngày 16-17/8 tại Tân Trào đã thông qua quyết định tổng khởi nghĩa và 10 chính sách lớn của Việt Minh. “Giờ tổng khởi nghĩa đã đánh! Cơ hội có một cho quân dân Việt Nam vùng dậy giành lấy quyền độc lập của nước nhà”, Quân lệnh số 1 của Ủy ban Khởi nghĩa do ông Trần Huy Liệu khởi thảo nêu.

Hơn 20 triệu người Việt Nam với tinh thần “sức ta giải phóng ta” đã đồng loạt khởi nghĩa giành chính quyền, từ ngày 14 đến 28/8/1945, thiết lập nền dân chủ cộng hòa, chấm dứt gần trăm năm thực dân và hàng nghìn năm phong kiến. 15 năm chuẩn bị để giành chính quyền trong 15 ngày khi thời cơ vàng đã đến.

Quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945.
Quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945.

Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại vườn hoa Ba Đình, Hà Nội. Khi ấy, trên chiến hạm Missouri đang bỏ neo trong vịnh Tokyo, Nhật Bản chính thức ký các văn kiện chấp nhận đầu hàng quân Đồng minh.

Khái quát đầy đủ ý nghĩa thắng lịch sử của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.

Đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp ở Việt Nam. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã mở ra bước ngoặt vĩ đại của cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Đánh giá về ý nghĩa lớn lao này.

Hồ Chí Minh tại quảng trường Ba Đình ngày 02/91945
Hồ Chí Minh tại quảng trường Ba Đình ngày 02/91945

Khẳng định vị thế, giá trị thời đại của  thắng lợi này, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã làm cho chúng ta trở nên một bộ phận trong đại gia đình dân chủ thế giới. Cách mạng Tháng Tám có ảnh hưởng trực tiếp và rất to đến hai dân tộc bạn là Miên và Lào. Cách mạng Tháng Tám thành công, nhân dân hai nước Miên, Lào cùng nổi lên chống đế quốc và đòi độc lập”

Có thể nói con đường để dân tộc Việt Nam giành lại độc lập tự do là con đường đầy gian nan thử thách. Sự thắng lợi của dân tộc Việt Nam không chỉ trong kháng chiến chống giặc ngoại xâm mà trên tất cả các lĩnh vực đều là kết quả của tinh thần yêu nước xây dựng trên tình đoàn kết dân tộc phát huy truyền thông tốt đẹp của dân tộc và sự giứp đỡ của bạn bè quốc tế. Đây chính là cơ sở để mỗi người dân Việt Nam lại viết tiếp câu chuyện hòa bình bằng những việc làm ý nghĩa thiết thực để bảo vệ thành quả của nền độc lập dân tộc.

Thực hiện: Trần Thị Lan – Phó Trường khoa Khoa học cơ bản

 

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

TIN MỚI CẬP NHẬT

TIN TUYỂN SINH